1. Nhà Nguyễn thành lập năm nào?
Nhà Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam do các hoàng đế họ Nguyễn thuộc dòng Nguyễn Phúc lập ra. Tổ tiên của các vị vua nhà Nguyễn là chúa Nguyễn từ thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) chính là hoàng đế đầu tiên của dòng họ Nguyễn, ông tự xưng đế vào năm 1802. Nguyễn Phúc Ánh chính là cháu nội của chúa Nguyễn Phúc Khoát – vị chúa Nguyễn áp chót ở đàng trong. Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn – Nguyễn Huệ lật đổ năm 1977, ông chạy trốn và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn. Nguyễn Ánh đã cầu cứu sự trợ giúp của quân Pháp, quân Thanh khiến cho Tây Sơn suy yếu.
Sau cái chết đột ngột của vua Quang Trung, Nguyễn Ánh đã giữ vững Nam Hà và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, lập nên triều đại nhà Nguyễn với tên nước là Việt Nam, chọn Phú Xuân (Huế) làm kinh đô. Nhà Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử. Trong đó, phải kể đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp giữa thế kỉ 19.
2. Nhà Nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào?
Đây là bối cảnh rất đặc biệt, nhà Nguyễn đã trải qua nhiều biến cố trong khoảng thời gian tồn tại. Nguyễn Ánh chạy trốn trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh đã nằm gai nếm mật trong vòng 25 năm nuôi chí lớn trả thù quân Tây Sơn, đánh bại nghĩa quân Tây Sơn.
Sau khi vua Quang Trung qua đời, triều đại Tây Sơn dần trở nên suy yếu, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Ánh đã huy động lực lượng tấn công nhà Tây Sơn. Năm 1802, triều Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, định đô ở Phú Xuân (Huế). Nhà Nguyễn huy động hàng chục vạn dân và lính phục vụ việc xây dựng kinh thành Huế. Các loại vật liệu như đá, gỗ, vôi, gạch, ngói từ mọi miền đất nước được đưa về đây. Sau mấy chục năm xây dựng và tu bổ nhiều lần, một toà thành đồ sộ và rộng lớn, dài 2km đã mọc lên bên bờ sông Hương.
Trong thời nhà Nguyễn, các vị vua không đặt ngôi hoàng hậu, bỏ chức tể tướng, tự mình trực tiếp điều hành mọi công việc hệ trọng trong nước từ trung ương đến địa phương, từ việc đặt luật pháp đến việc tổ chức các kì thi Hội, từ việc thay đổi các quan trong triều, điều động quân đi đánh xa đến việc trực tiếp điều hành các quan đứng đầu tình,… đều do vua quyết định. Điều này đã thể hiện rằng, các vua triều Nguyễn đều không muốn chia sẻ quyền lực với bất kì ai.
3. Các đời vua thời nhà Nguyễn
3.1. Vua Gia Long
Vương triều nhà Nguyễn tồn tại đến năm 1945, tức 143 năm với 13 đời vua, mở đầu triều đại là vua Nguyễn Phúc Ánh, hiệu là Gia Long, lấy tên nước là Việt Nam. Vua Gia Long là con thứ ba của Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàn. Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn, Gia Long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lộng quyền, ngay từ đầu nhà vua bãi bỏ chức vụ Tể tướng, ở trong hậu cung cũng không lập ngôi vị hoàng hậu, chỉ có Hoàng phi và các cung tần. Về đối ngoại, vua Gia Long một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, mặt khác tạo quan hệ đàn anh đối với Chân Lạp và Ai Lao. Đối với các nước phương Tây, từ chỗ dựa vào lực lượng của họ để giành thắng lợi lại chuyển sang lạnh nhạt. Ông có hai người vợ chính: thứ nhất là Thế tổ Thừa Thiên Cao hoàng hậu họ Tống, con gái Quí quốc công Tống Phúc Khuông. Người thứ hai là Thuận Thiên Cao hoàng hậu họ Trần, con gái Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt. Sau này, Gia Long có tổng cộng 13 hoàng tử và 18 vị công chúa.
3.2. Vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, là con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoàng hậu. Ông là một vị vua năng động và quyết đoán, nhiều cải cách từ nội trị đến ngoại giao. Về nội trị, ông cho lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở kinh đô Huế, bãi bỏ chức tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền Núi. Về đối ngoại, ông đổi tên nước từ Việt Nam thành Đại Nam và có nhiều chiến lược, hành động nhằm biến Đại Nam thành quốc gia hùng cường. Kết quả lãnh thổ nước ta dưới thời vua Minh Mạng rộng lớn hơn tất cả các đời vua trước đây. Trị vì 21 năm, vua Minh Mạng lo toan công việc thường ngày, mọi phê bảo, dụ chỉ, chế cáo đều tự tay vua viết ra với số lượng không nhỏ. Không những thế, thời gian rảnh rỗi vua còn làm thơ, và hậu duệ sau này của vua Minh Mạng cũng là một con số đáng nể. Theo đó, số liệu chính xác về hậu duệ của ông là tổng cộng 142 người, bao gồm 78 hoàng nam và 64 hoàng nữ.
3.3. Vua Thiệu Trị
Vua Thiệu Trị là con trai của vua Minh Mạng và Thuận đức Thần phi, có tên thật là Miên Tông. Ông là người hiền hoà, không hay bày việc. Đồng thời, mọi quy chế đã được sắp xếp quy củ từ thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị giữ nếp cũ, chỉ răm rắp làm theo lời di huấn của cha. Quan lại cũ từng giúp Minh Mạng nay vẫn là những trọng thần của vua Thiệu Trị. Tuy nhiên, triều đại của vua Thiệu Trị không dài, vào tháng 9 năm Đinh Mùi, ông bị bệnh rồi mất, ở ngôi được 7 năm, miến hiệu là Hiếu tổ chương hoàng đế, có 54 người con bao gồm 29 hoàng nam và 25 hoàng nữ.
3.4. Vua Tự Đức
Vua huý là Thì, tên đặt theo đế hệ là Hồng Nhậm, là con thứ hai của vua Thiệu Trị. Ông có sức khoẻ yếu, luôn phải sống trong cung điẹn Huế. Cũng chính vì lí do này mà vua ít sát dân tình, ngày càng trở nên quan liêu, mệnh lệnh. Nhưng bài lại, vua Tự Đức rất thông minh và có tài văn học. Có thể nói ông là người uyên bác nhất thời đó và là môn đồ tích cực của Khổng học. Tuy nhiên, vua Tự Đức không có con cái. Ông phải nuôi 3 người con của anh mình làm con nuôi là Ưng Chân, Ưng Kỷ và Ưng Đăng để chuẩn bị cho người nối nghiệp vua sau này.
3.5. Vua Dục Đức
Vua Dục Đức là con trai nuôi Ưng Chân của vua Tự Đức. Ông là người có nhiều tính xấu bị vua cha liệt kê trong di chúc, nhưng cũng bởi ông nhiều tuổi nhất trong ba vị con nuổi nên vua Tự Đức đã để lại di chúc cho Ưng Chân nối nghiệp của mình. Sau này, vào ngày đăng quang, vua Dục Đức đã yêu cầu ba vị đại thần không đọc đoạn nhận xét của vua cha về mình trong lễ lên ngôi. Khi Trần Tiến Thành đọc đến đoạn ấy, đã cố ý đọc bé đi để không ai nghe rõ, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nổi giận yêu cầu đọc lại. Hai hôm sau, tại buổi thiết triều có đông đủ hoàng thân và đình thân, Nguyễn Văn Tường đã đứng lên tuyên cáo phế truất Dục Đức vì các tội:
– Cắt bớt một đoạn trong di chiếu của vua cha.
– Tự tiện đưa một giáo sĩ vào hoàng thành.
– Mặc áo màu xanh trong khi để tang vua cha.
Dục Đức bị tống giam tại một phòng kín ngay trong ngày thứ 3 trị vì của mình. Sau này, khi con trai thứ 7 tức Thành Thái lên làm vua, Dục Đức mới được khôi phục đế hiệu và tôn là “Cung tôn huệ hoàng đế”.
3.6. Vua Hiệp Hoà
Ông tên thật là Hồng Dật, con thứ 29 của vua Thiệu Trị. Tháng 6 năm 1883, phế xong Dục Đức, theo ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, được ý chỉ của Từ Dụ Hoàng Thái Hậu, triều đình cử một phái đoàn ra Kim Long rước ông vào Đại Nội để chuẩn bị làm lễ đăng quang trở thành vua Hiệp Hoà. Sau này, vua Hiệp Hoà nhận thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cậy công tôn lập nên thâu tóm mọi quyền hành, vua đã có mật sớ với người thân tín của mình là Hồng Phi và Trần Tiến Thành là giết Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Sự việc bại lộ, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường bàn kế sách phế truất Hiệp Hoà, lấy lí do là vua có âm mưu dựa vào quân Pháp giết hại hai đại thần phụ chính. Đồng thời ép các quan kí vào tờ sớ đòi phế truất Hiệp Hoà và vào cung Diên Thọ xin ý chỉ của Hoàng thái hậu. Suy cho cùng, vua Hiệp Hoà vẫn không thể tránh khỏi hoạ sát thân. Ông làm vua được 4 tháng thì qua đời, giao cho phủ Tôn nhân chôn cất theo nghi thức Quốc công.
3.7. Vua Kiến Phúc
Vua Kiến Phúc chính là Ưng Đăng, con trai nuôi thứ 3 của vua Tự Đức. Ông là người hiểu biết, ôn hoà, cẩn thận lời nói và việc làm nên được vua Tự Đức tỏ ý yêu quý vô cùng. Ngay cả trong di chiếu, vua Tự Đức cũng tỏ ý muốn nhường ngôi cho Ưng Đăng, nhưng vì nhỏ tuổi nên đành thôi. Chính vì vậy, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã xin lập Ưng Đăng làm vua, tuy nhiên, ông cũng không tại vị được bao lâu cũng đã mất vì bệnh nặng. Khi ấy, ông cũng mới chỉ có 15 tuổi.
3.8 Vua Hàm Nghi
Vua Hàm Nghi tên là Ưng Lịch, vốn là em trai ruột của vua Kiến Phúc. Sau khi vua Kiến Phúc mất, Ưng Lịch mới 13 tuổi đã được đưa lên ngôi ngày 1/8/1884. Ông là vị vua chịu nhiều gian truân nhất, song cũng là vị vua tuổi trẻ, chí lớn và được lòng dân. Vua Hàm Nghi lớn lên trong bối cảnh đất nước rối ren, trong nội bộ triều đình Huế lúc bấy giờ đã chia thành 2 phe: Chủ chiến và chủ hoà. Một phong trào phản kháng hành động ương hèn của triều đình Huế đã nổ ra, trong đó có sự tham gia của một số quan lại phe chủ chiến. Đêm 23/5/1885, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết – nòng cốt phe chủ chiến đã tấn công đồn Mang Cá và toà trú sứ của Pháp, những đã thất bại, buộc quan quân triều Nguyễn phải rời bỏ kinh thành Huế. Trong thời gian lánh nạn, vua Hàm Nghi vẫn chưa bao giờ từ bỏ ý định kháng chiến dù thực dân Pháp đã dùng đủ chiêu trò dụ dỗ, mua chuộc ông. Vì vậy, thực dân Pháp đã tìm đủ mọi cách để đày ông đi Algeria. Sau này, ông cũng sống ở Algieria 47 năm và thọ 64 tuổi.
3.9. Vua Đồng Khánh
Sau khi đi đày vua Hàm Nghi, thực dân Pháp bàn với đại thần cơ mật Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình lập Kiến Giang quận công làm vua mới. Ông là một trong 3 người con nuôi của vua Tự Đức, ngày 19/9/1885 dưới quyền bảo trợ của người Pháp, ông được lập làm vua lấy hiệu là Đồng Khánh. Trong thời gian Đồng Khánh làm vua, ông càng thân với Pháp thì phong trào Cần Vương chống Pháp càng lan rộng khắp nơi. Song, đời làm vua của Đồng Khánh không được lâu, ngày 25/12/1888, Đồng Khánh chết bệnh tại chính định Càn Thành (Huế) khi mới 25 tuổi, ở ngôi 3 năm và có 9 người con.
3.10. Vua Thành Thái
Khi vua Đồng Khánh mất, 6 người con trai của ông còn quá nhỏ nên triều đình đã đón người con thứ 7 của vua Dục Đức là hoàng tử Bửu Lân khi đó mới 8 tuổi lên ngôi vua. Thành Thái là người thông minh, từ sau khi vua Dục Đức bị phế truất, ông đã phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Vì thế, từ khi còn nhỏ, ông đã sớm có ý thức về quốc sự và rất hiểu biết. Vua thích đọc các tân thư chữ Hán, nhờ đó ông có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải cách. Song, mọi dự định cách tân đất nước của vua đều bị thực dân Pháp ngăn chặn. Đồng thời, vua Thành Thái rất thương dân nên khâm sứ Pháp rất lo ngại và muốn truất ngôi của Thành Thái để thay bằng vị vua bù nhìn khác. Họ phao tin nhà vua bị điên để hạ uy thế. Vì vậy, vua Thành Thái buộc phải thoái vị sau 18 năm làm vua với lí do sức khoẻ và bị đi đày 31 năm mới được trở về Tổ quốc.
3.11 Vua Duy Tân
Hạ bệ xong vua Thành Thái, thực dân Pháp định dùng con của Thành Thái là hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Nhưng chúng không ngờ vị vua trẻ này lại có thái độ chống lại kiên quyết hơn cả vua cha. Từ khi còn nhỏ, vua đã có việc làm và lời nói cương nghị chống Pháp rất mạnh mẽ. Cuối năm 1916, được một tổ chức cứu nước giúp đỡ. vua Duy Tân đã bí mật gặp hai nhà chí sĩ Việt Nam Quang phục hội bàn mưu khởi nghĩa đánh Pháp. Không may bị lộ, nhà vua bị giặc Pháp bắt tại một ngôi chùa ở Quảng Ngãi. Tuy giặc dụ dỗ nhưng ông vẫn nhất quyết không trở về, cuối cùng, ông bị đi đày tại đảo Rêuyniông. Trải qua một khoảng thời gian dài sống nơi xứ ngoài, đến năm 1945 Duy Tân chấp thuận lời đề nghị trở về Việt Nam nhưng bị tai nạn máy bay, thọ 46 tuổi.
3.12. Vua Khải Định
Khải Định tên thật là Bửu Đảo, là con của vua Đồng Khánh. Từ sau khi vua Duy Tân bị đi đày, Pháp đưa Bửu Đảo lên ngôi, lấy hiệu là Khải Định, 32 tuổi. Ông bị coi là ông vua bù nhìn mạt hạng trong mắt người dân lúc bấy giờ. Đến khi ông được ngoài 40 tuổi thì qua đời, lễ tang kéo dài từ 6/11/1925 đến ngày 31/1/1926.
3.13. Vua Bảo Đại
Vua Bảo Đại là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, cũng là vị cua cuối cùng trong thời đại phong kiến nước ta. Ông là người được tiếp cận nền văn hoá phương Tây từ rất sớm do được vua cha gửi sang Pháp để đào tạo. Tuy nhiên, khi lên làm vua, ông đã ban hành hàng loạt chính sách cải cách, thực chất lại chỉ là hình thức mị dân mà thôi. Ông có một mối tình đẹp với bà Nguyễn Hữu Thị Lan – người mà sau này được vua bảo đại lập là Nam Phương Hoàng Hậu. Đây là trường hợp duy nhất một ông vua nhà Nguyễn lập Hoàng Hậu khi đương ngôi. Trong thời gian vua Bảo Đại trị vì, quần chúng cách mạng cả nước dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh đã dấy lên đấu tranh như vũ bão, buộc Bảo Đại tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng và tuyên bố “làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Sau đó, vua Bảo Đại đã chính thức trở thành công dân bình thường, là vị hoàng đế cuối cùng, chấm dứt thời kì phong kiến tập quyền lâu dài, lịch sử Việt Nam bước sang một trang mới, hình thành nhà nước Việt Nam độc lập.
Trên đây là toàn bộ thông tin về sự ra đời của nhà Nguyễn và những 13 đời vua của triều đại này. Hy vọng bài viết này sẽ cung cấp cho bạn đọc những kiến thức hữu ích. Xin chân thành cảm ơn!